Muối kiềm Chromi(III) perhenat

Crom(III) perhenat có thể tạo ra một số loại muối kiềm, với công thức tổng quát là Cr(OH)x(ReO4)3 − x. Các muối với x = 1 và x = 2 và các dạng ngậm nước của nó cũng đã được biết đến. Chúng đều được Zaitseva và các cộng sự điều chế năm 1982.[4]

Tính chất

  • Muối x = 1: Có công thức hóa học CrOH(ReO4)2. Hợp chất tạo ra các dạng ngậm 2,5 và 4 nước.
  • Muối x = 2: Có công thức hóa học Cr(OH)2ReO4. Hợp chất được biết đến dưới dạng ngậm 1 và 2 nước.[4]

Cả hai muối đều dễ chảy (đối với dạng ngậm nước), có tính hút ẩm cực kỳ mạnh, màu lục nhạt, nhưng muối có 1 nhóm hydroxide (OH–) có vết vạch đậm màu hơn so với muối có 2 nhóm hydroxide.[4]

Các muối crom(III) hydroxide-perhenat nói trên đều tan trong nước, etanol, aceton, nhưng không tan trong CCl4. Khối lượng riêng của các muối tại nhiệt độ 25 ± 0,1 ℃ như sau: muối x = 1 có D = 3,11 g/cm³, muối x = 2 có D = 2,88 g/cm³.[4][ghi chú 12]

Sự phân hủy

Dạng ngậm nước cao nhất của chúng bị phân hủy bước đầu ở 80 °C (176 °F; 353 K). Muối 1 nhóm hydroxide bị mất 1,5 nước, muối 2 nhóm hydroxide bị mất 1 nước. Màu của hai hợp chất chuyển dần từ lục nhạt sang lục đậm rồi biến thành màu nâu đầm lầy.[4][ghi chú 13]

Khi đun nóng đến 190 °C (374 °F; 463 K), muối 1 nhóm hydroxide trở thành dạng khan; đối với muối 2 nhóm hydroxide thì nhiệt độ này là 180 °C (356 °F; 453 K).[ghi chú 14]

Trong quá trình phân hủy, crom(III) bị oxy hóa. Muối 1 nhóm hydroxide bị oxy hóa ở 380–460 °C (716–860 °F; 653–733 K), của muối 2 nhóm hydroxide là 450–495 °C (842–923 °F; 723–768 K).[ghi chú 14]

Sự phân hủy của các muối kiềm khan thành các rheni oxit diễn ra ở những nhiệt độ khá gần nhau. Muối 1 nhóm hydroxide bị phân hủy thành các loại rheni oxit ở 490–520 °C (914–968 °F; 763–793 K), muối 2 nhóm hydroxide phân hủy theo cách tương tự ở 500–510 °C (932–950 °F; 773–783 K).[4]